Thời kì đầu cai trị George III của Anh

George, trong bài phát biểu đầu tiên trước Quốc hội, đã tuyên bố: "Chào đời và được giáo dục tại đất nước này, Quả nhân cảm thấy vinh dự với cái tên Anh quốc".[21] Ông đưa những cụm từ này vào bài nói, được soạn thảo bởi Lord Hardwicke, nhằm để chứng tỏ mong muốn giữ khoảng cách với các tằng tổ phụ và tổ phụ, những vị vua được cho là quan tâm đến Hannover nhiều hơn là Anh quốc.[22]

Mặc dù việc đăng cơ của nhà vua ban đầu được chào đón bởi tất cả tất cả các chính khách của các đảng,[lower-alpha 3] những năm đầu triều George III được đánh dấu bởi những bất ổn về chính trị, chủ yếu là do nguyên nhân từ sự bất đồng ý kiến giữa các phe trong quyết sách đối ngoại thời Chiến tranh Bảy năm.[24] George được coi là ủng hộ Đảng Tory, dẫn đến việc các thành viên Đảng Whigs chê trách ông là một vị vua chuyên quyền.[1] Khi ông lên ngôi, đất đai của hoàng gia thu được khá ít lợi tức bằng sản xuất, hầu hết doanh thu có được là do các loại thuế đặc biệt. George giao lại bất động sản hoàng gia cho Quốc hội kiểm soát để đổi lấy một khoản phụ cấp mỗi năm trợ cấp cho vương thất và trang trải những chi phí cho chính phủ dân sự. Có lời xác nhận rằng nhà vua đã đem số tiền ấy trao cho những người ủng hộ như món quà biếu xén và hối lộ và vấn đề này đang bị các sử gia tuyên bố rằng: "còn lại trên không có gì nhưng sai lầm là bởi sự phản đối bất mãn". Các khoản nợ lên tới 3 triệu bảng Anh trong suốt triều George III đã được Nghị viện chi trả, và tiền chu cấp cho vương thất tăng lên theo từng năm.[25] Ông tài trợ Viện Nghệ thuật Vương thất bằng các khoản tài trợ lớn rút ra từ tiền túi của ông,[26] và có thể ông đã quyên góp hơn một nửa tiền thu nhập cá nhân để làm từ thiện.[27] Trong bộ sưu tập của ông, có hai món hàng đáng chú ý là Lady at the Virginals của Johannes Vermeer và một bộ Canaletto, nhưng đáng chú ý nhất vẫn là một bộ sưu tập sách của ông.[28] Thư viện của nhà vua được mở và các học giả được phép vào thăm. Đó là nền tảng của thư viện quốc gia kiểu mới.[29]

George III, vẽ bởi Allan Ramsay, 1762.

Tháng 5 năm 1762, chính phủ của đảng Whigs do Quận công Newcastle lãnh đạo đã được thay thế bằng chính phủ được lãnh đạo bởi chính khách người Scotland thuộc đảng Tory là Lord Bute. Đối thủ của Bute đã hoạt động cực lực để chống lại ông ta bằng cách tuyên truyền vu khống rằng ông có quan hệ mờ ám với thân mẫu nhà vua, và khai thác định kiến kì thị người Scotland của người Anh.[30] John Wilkes, một thành viên trong Nghị viện, đã xuất bản cuốn The North Briton, với nội dung chính là lên án và phỉ báng sự có mặt của Bute trong chính phủ. Wilkes cuối cùng bị bắt vì tội dấy loạn phỉ báng nhưng ông ta đã chạy sang Pháp để trốn tội, ông bị kết tội vắng mặt bởi Tòa án Hoàng gia với các tội báng bổ và bôi nhọ.[31] Năm 1763, sau khi ký kết Hiệp định hòa bình ở Paris nhằm kết thúc chiến tranh, Lord Bute từ chức, và đảng Whigs giành lại quyền lực với Thủ tướng mới George Grenville.

Cuối năm đó, Tuyên cáo Vương thất 1763 đặt ra một giới hạn về sự mở rộng về phía tây các thuộc địa ở châu Mỹ. Tuyên ngôn nhấn mạnh việc chuyển hướng mở rộng thuộc địa lên phía bắc (tới Nova Scotia) và xuống phía nam (Florida). Tuyên ngôn không nói nhiều đến đa số nông dân định cư trên đất Mỹ, nhưng nó đã khiến cho một bộ phận nhỏ quần chúng không hài lòng, trở thành một trong những mầm mống xung đột và người dân 13 thuộc địa Mỹ với chính phủ Đại Anh.[32] Với việc người dân Mỹ phải nộp nhiều tô thuế cho chính quốc, chính phủ Anh nghĩ rằng như vậy là thích hợp để đảm bảo không có các cuộc nổi dậy của người dân thuộc địa, và có chi phí chống trả các cuộc tấn công của người Pháp.[lower-alpha 4] Vấn đề ở đây không phải số tiền thuế là bao nhiêu, mà là liệu người Mỹ có chấp thuận hay không, khi mà trong Nghị viện không có một ghế nào dành cho người Mỹ.[35] Người Mỹ phản đối, họ cho rằng giống như tất cả người Anh, họ có quyền "không đánh thuế nếu không có người đại diện". Năm 1765, Grenville đề xuất Đạo luật tem, theo đó sẽ ấn định lệ phí chứng từ trên mọi tài liệu trong các thuộc địa Anh ở Bắc Mỹ. Kể từ khi báo được in trên những mẫu giấy có dán tem, những nhà tư sản bị ảnh hưởng nhiều nhất bởi sự ra đời của thứ thuế này, bắt đầu tuyên truyền việc chống thuế.[36] Trong khi đó, nhà vua trở nên bực tức với những chính sách của Grenville khi giảm bớt đặc quyền của quốc vương, và cố gắng nhưng không thành công khi thuyết phục William Pitt Già đồng ý nhận chức vụ Thủ tướng.[37] Sau một thời gian ngắn bị bệnh, có thể đã được dự đoán trước thời gian bệnh, George chọn Lord Rockingham thành lập chính phủ mới, và sa thải Grenville.[38]

Lord Rockingham, với sự đồng thuận của Pitt và nhà vua, bãi bỏ Đạo luật tem vốn không được số đông quần chúng tán thành, nhưng chính phủ của ông quá yếu kém và bị thay thế vào năm 1766 bởi Pitt, người được George phong làm Bá tước Chatham. Những hành động của Lord Chatham và George III bao gồm bãi bỏ Đạo luật rất được ưa chuộng ở Mỹ và bức tượng của hai người được dựng nên ở thành phố New York.[39] Lord Chatham bị bệnh vào năm 1767Công tước xứ Grafton lãnh đạo chính phủ, mặc dù ông ta không được phong làm Thủ tướng cho tới năm 1768. Năm đó, John Wilkes trở lại Anh, ra tranh cử vào Quốc hội; và dẫn đầu về số phiếu bầu ở Khu vực bầu cử Middlesex. Wilkes một lần nữa bị Quốc hội trục xuất. Sau đó Wilkes lại được bầu và hai lần nữa bị trục xuất, trước khi Hạ viện tuyên bố ông không có tư cách ứng cử và chiến thắng thuộc về người đứng thứ 2.[40] Chính phủ của Grafton giải thể năm 1770, cho phép đảng Tory dưới sự lãnh đạo của Lord North trở lại nắm quyền.[41]

Tranh vẽ bởi Johann Zoffany, 1771

George là một người vô cùng sùng đạo và dành nhiều thời gian để cầu nguyện,[42] nhưng lòng mộ đạo của ông không được anh em ông học theo. George cảm thấy kinh hoàng bởi những gì ông gọi là "nhân cách buông thả" của anh em mình. Năm 1770, em trai nhà vua, Prince Henry, Công tước xứ Cumberland và Strathearn, bị vạch trần có quan hệ lén lút với một phụ nữ đã có chồng. Năm sau, Cumberland kết hôn với một góa phụ trẻ, Anne Horton. Nhà vua cho rằng Công nương không phù hợp để trở thành một thành viên vương thất do xuất thân của bà quá thấp. George nhấn mạnh rằng nên có một đạo luật mới, cấm các thành viên trong vương thất kết hôn mà không có sự đồng ý của Quốc vương. Dự luật này không được sự ủng hộ trong Quốc hội, bao gồm cả những Bộ trưởng của George, song Đạo luật Hôn nhân Vương thất 1772 đã được thông qua. Không bao lâu sau đó, một người em trai khác của nhà vua, Prince William Henry, Công tước xứ Gloucester và Edinburgh, thú nhận rằng ông có bí mật kết hôn với Maria, Nữ Bá tước Waldegrave, con ngoài giá thú của Sir Edward Walpole. Các tin tức khẳng định quan điểm của George rằng ông đã đúng khi ban hành đạo luật: Maria có liên hệ với những đối thủ chính trị của ông. Công nương đã không được triều đình thừa nhận.[43]

Chính phủ của Lord North rất lo lắng về sự bất mãn của người dân 13 thuộc địa. Để xoa dịu dư luận, phần lớn các thứ thuế đã bị bãi bỏ, trừ thuế trà ra; điều mà George gọi là "một thứ thuế cần để duy trì điều đúng đắn (đánh thuế)".[44] Năm 1773, tàu chở trà của người Anh neo tại Cảng Boston đã bị người dân thuộc địa đánh cướp và ném hết trà xuống biển; sự kiện này gọi là Tiệc trà Boston. Ở Anh, chính phủ bày tỏ thái độ cứng rắn, và Chatham đồng ý với North vụ cướp trà "chắc chắn là hành vi phạm tội".[45] Với sự ủng hộ tích cực từ Nghị viện, Lord North ban hành các biện pháp mới, gọi là Đạo luật Không thể chấp nhận, theo đó cảng Boston bị đóng cửa và đặc quyền dành cho tiểu bang Massachusetts đã bị bãi bỏ khi những người đứng đầu cơ quan lập pháp sẽ được chỉ định bởi nhà vua thay vì Hạ viện.[46] Tính đến thời điểm đó, theo ý kiến của Giáo sư Peter Thomas, "niềm hy vọng của Thánh thượng được tập trung vào một giải pháp chính trị, và Ngài luôn luôn chấp thuận các ý kiến từ nội các ngay cả khi hoài nghi về thành công của chúng". Các bằng chứng chi tiết vào những năm 1763-1775 có xu hướng giải tội cho George III về tội ác thực sự đối với Cách mạng Mỹ.[47] Mặc dù người Mỹ vẫn xem ông như một quân vương bạo chúa, nhưng trong những năm đó, ông đã hành động như một vị vua lập hiến khi chỉ ủng hộ các chính sách từ các bộ trưởng.[48]